Bệnh gút là gì? Các công bố khoa học về Bệnh gút
Bệnh gút, còn được gọi là bệnh gút cấp hoặc bệnh gút mãn tính, là một loại viêm khớp mạn tính có nguyên nhân chính là do tăng hàm lượng acid uric trong máu. Aci...
Bệnh gút, còn được gọi là bệnh gút cấp hoặc bệnh gút mãn tính, là một loại viêm khớp mạn tính có nguyên nhân chính là do tăng hàm lượng acid uric trong máu. Acid uric tạo thành các tinh thể urat trong khớp, gây ra viêm dữ dội, đau và sưng đỏ ở các khớp, thường là ở hình dạng của hạt tinh thể trên da. Bệnh gút thường ảnh hưởng đến ngón chân cái, gây đau nhức, cản trở khả năng di chuyển. Bệnh thường phát triển chậm dần và có thể làm viêm nhiều khớp và gây ra tổn thương lâu dài nếu không điều trị. Các nguyên nhân gây bệnh gút gồm di truyền, tác động từ thức ăn (như quá nhiều purine từ một số loại thực phẩm), bệnh tiểu đường, béo phì và tiền sử gia đình về bệnh gút.
Bệnh gút là một dạng viêm khớp mạn tính mà nguyên nhân chính là tăng hàm lượng acid uric trong máu. Acid uric là một chất thải tự nhiên trong cơ thể, được tạo ra từ quá trình phân hủy purine - một hợp chất có trong một số loại thực phẩm. Thường thì acid uric sẽ được hòa tan trong máu và được tiểu tiết bởi thận. Tuy nhiên, nếu có sự cân bằng cung cầu giữa việc sản sinh acid uric và khả năng tiễn thải của thận bị mất cân đối, acid uric sẽ tích tụ trong máu, hình thành tinh thể urat trong các khớp.
Các tinh thể urat sẽ chắp cánh việc xâm nhập và kích thích miễn dịch, làm cho khớp bị viêm, đau và sưng đỏ. Cụ thể, bất kỳ khớp nào trong cơ thể có thể bị ảnh hưởng, nhưng bệnh gút thường tác động mạnh nhất lên các khớp nhỏ, đặc biệt là ngón chân cái.
Các yếu tố nguy cơ gây bệnh gút bao gồm:
1. Yếu tố di truyền và gia đình: Có người thân có bệnh gút gia đình gia tăng nguy cơ mắc bệnh.
2. Thức ăn: Một số thực phẩm giàu purine gia tăng khả năng sản xuất acid uric. Điển hình là các thực phẩm có hàm lượng nạc cao như hải sản (tôm, cua, cá mòi), thịt đỏ, các loại mỡ và các loại nước ngọt có chứa fructose.
3. Tiền sử bệnh tiểu đường, béo phì, thiếu tái hấp thụ chất xơ, già đồng và sử dụng một số loại thuốc (như thiazide, aspirin) cũng có thể tăng nguy cơ mắc bệnh gút.
Triệu chứng bệnh gút có thể bao gồm: đau cấp tính, sưng và đỏ ở khớp. Những cơn đau thường xảy ra trong đêm và có thể kéo dài từ vài giờ đến vài ngày. Ngoài ra, các khớp bị tác động có thể trở nên nhạy cảm và đau khi tiếp xúc với ánh sáng hoặc chạm vào.
Để chẩn đoán bệnh gút, bác sĩ thường sử dụng các phương pháp như kiểm tra huyết thanh để đo hàm lượng acid uric, thực hiện xét nghiệm nước tiểu để xác định có tinh thể urat hay không.
Điều trị bệnh gút bao gồm giảm đau và viêm, kiểm soát tăng acid uric và ngăn ngừa tái phát. Điều này có thể được đạt được thông qua việc dùng thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs), thuốc chống viêm steroid, thuốc làm giảm hàm lượng acid uric (như allopurinol), thay đổi lối sống (như giảm cân, tăng hoạt động thể chất, kiểm soát thức ăn) và hạn chế tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh gút":
Vi sinh vật đường ruột là một tập hợp các vi sinh vật sinh sống trong toàn bộ đường tiêu hóa của động vật có vú. Thành phần của cộng đồng vi sinh vật này là đặc trưng cho từng chủ thể, tiến hóa trong suốt cuộc đời của một cá nhân và dễ bị tác động bởi cả những thay đổi bên ngoài và bên trong. Sự quan tâm gần đây đối với cấu trúc và chức năng của "cơ quan" này đã làm nổi bật vị trí trung tâm của nó trong sức khỏe và bệnh tật. Vi sinh vật đường ruột có vai trò mật thiết trong nhiều khía cạnh của sinh lý bình thường của chủ thể, từ trạng thái dinh dưỡng đến hành vi và phản ứng với stress. Ngoài ra, chúng có thể là nguyên nhân chính hoặc nguyên nhân góp phần vào nhiều bệnh, ảnh hưởng đến cả các hệ thống cơ quan gần và xa. Sự cân bằng tổng thể trong thành phần của cộng đồng vi sinh vật đường ruột, cũng như sự hiện diện hoặc vắng mặt của các loài vi sinh vật chính có khả năng gây ra các phản ứng cụ thể, là rất quan trọng trong việc đảm bảo trạng thái cân bằng hoặc sự thiếu hụt tại niêm mạc ruột và các khu vực khác. Cơ chế mà vi sinh vật thực hiện lợi ích hoặc ảnh hưởng có hại của chúng vẫn chủ yếu chưa được xác định rõ, nhưng bao gồm cả việc giải phóng các phân tử tín hiệu và việc nhận diện các epitop vi khuẩn bởi cả tế bào biểu mô ruột và tế bào miễn dịch niêm mạc. Những tiến bộ trong việc mô hình hóa và phân tích vi sinh vật đường ruột sẽ nâng cao hiểu biết của chúng ta về vai trò của chúng trong sức khỏe và bệnh tật, cho phép tùy chỉnh các liệu pháp và biện pháp phòng ngừa hiện tại và trong tương lai.
Các thay đổi nội soi của thực quản có giá trị chẩn đoán và xác định những bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh mãn tính. Tuy nhiên, hiện có sự thiếu đồng thuận nghiêm trọng về cách mô tả và phân loại hình ảnh của viêm thực quản do trào ngược.
Để kiểm tra độ tin cậy của các tiêu chí mô tả mức độ xung quanh của các điểm tổn thương niêm mạc và đánh giá các tương quan lâm sàng và chức năng của bệnh nhân mắc bệnh trào ngược thực quản mà mức độ viêm thực quản được phân loại theo hệ thống Los Angeles.
Bốn mươi sáu chuyên gia nội soi từ các quốc gia khác nhau đã sử dụng một bảng kiểm tra chi tiết để đánh giá các video nội soi từ 22 bệnh nhân với đầy đủ mức độ nghiêm trọng của viêm thực quản do trào ngược. Trong các nghiên cứu riêng biệt, các phân loại hệ thống Los Angeles đã được tương quan với việc theo dõi pH thực quản trong 24 giờ (178 bệnh nhân), và với các thử nghiệm lâm sàng về điều trị omeprazole (277 bệnh nhân).
Đánh giá mức độ xung quanh của viêm thực quản theo tiêu chí xem các điểm tổn thương niêm mạc kéo dài giữa các đỉnh của các nếp gấp niêm mạc, cho thấy sự đồng thuận chấp nhận được (giá trị κ trung bình 0.4) giữa các quan sát viên. Cách tiếp cận này được sử dụng trong hệ thống Los Angeles. Một phương pháp thay thế là nhóm mức độ xung quanh của các điểm tổn thương niêm mạc chiếm 0–25%, 26–50%, 51–75%, 76–99% hoặc 100% chu vi thực quản, cho thấy sự biến động giữa các quan sát viên ở mức không chấp nhận được (giá trị κ trung bình 0–0.15) đối với tất cả nhưng thể loại mức độ thấp nhất (giá trị κ trung bình 0.4). Mức độ tiếp xúc với axit thực quản có liên quan đáng kể (p<0.001) đến mức độ nghiêm trọng của viêm thực quản. Các mức độ viêm thực quản trước điều trị A–C có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của chứng ợ nóng (p<0.01), kết quả điều trị omeprazole (10 mg mỗi ngày) (p<0.01), và nguy cơ tái phát triệu chứng khi ngừng điều trị trong vòng sáu tháng (p<0.05).
Kết quả cung cấp thêm hỗ trợ cho các nghiên cứu trước đây về tính hữu dụng lâm sàng của hệ thống Los Angeles trong việc phân loại viêm thực quản nội soi.
Ống tiêu hóa của động vật có vú có sự cư trú của một số lượng lớn các vi sinh vật, bao gồm hàng nghìn tỷ vi khuẩn được gọi chung là hệ vi sinh vật ruột. Những vi sinh vật bản địa này đã tiến hóa đồng hành với vật chủ trong một mối quan hệ cộng sinh. Ngoài những lợi ích về chuyển hóa, các vi khuẩn cộng sinh cung cấp cho vật chủ nhiều chức năng hỗ trợ cân bằng miễn dịch, phản ứng miễn dịch và bảo vệ chống lại sự xâm nhập của mầm bệnh. Khả năng của vi khuẩn cộng sinh trong việc ức chế sự xâm lấn của mầm bệnh được điều hòa thông qua một số cơ chế, bao gồm giết chết trực tiếp, cạnh tranh giành chất dinh dưỡng có hạn và tăng cường phản ứng miễn dịch. Các mầm bệnh đã phát triển chiến lược để thúc đẩy sự sao chép của chúng trong sự hiện diện của hệ vi sinh vật ruột. Sự xáo trộn cấu trúc hệ vi sinh vật ruột do các yếu tố môi trường và di truyền làm tăng nguy cơ nhiễm mầm bệnh, thúc đẩy sự phát triển quá mức của các vi sinh vật bệnh hại và sự phát triển của bệnh viêm. Hiểu biết về sự tương tác của hệ vi sinh vật với các mầm bệnh và hệ miễn dịch sẽ cung cấp cái nhìn quan trọng về cơ chế bệnh sinh của bệnh và phát triển các chiến lược để ngăn ngừa và điều trị bệnh viêm.
Gia đình
Hệ vi sinh vật đường ruột bao gồm hàng nghìn tỷ vi sinh vật sinh sống trong ruột động vật có vú. Những vi khuẩn này điều tiết nhiều khía cạnh của sinh lý chủ, bao gồm các cơ chế bảo vệ chống lại các yếu tố góp phần gây ra bệnh viêm ruột (IBDs). Mặc dù vi sinh vật đường ruột rất phong phú, nhưng có rất ít thông tin về cách mà những vi khuẩn này điều chỉnh các quá trình của chủ, bao gồm chức năng hàng rào của biểu mô ruột, điều khiển tính thấm của ruột liên quan đến IBDs. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi phát hiện ra rằng ba chất chuyển hóa phân tử nhỏ do vi khuẩn đường ruột sản sinh từ tryptophan trong chế độ ăn uống làm cải thiện độ toàn vẹn của hàng rào ruột và bảo vệ chống lại viêm do IBDs gây ra. Nghiên cứu của chúng tôi nhận diện một thụ thể của chủ và các mục tiêu tiếp theo của các chất chuyển hóa, có thể đóng vai trò như các con đường tiềm năng cho các phương pháp điều trị dự phòng và điều trị nhằm cải thiện tình trạng nghiêm trọng trong IBDs.
Có rất ít dữ liệu về sự khác biệt trong thành phần vi sinh vật đường ruột giữa các bệnh đường tiêu hóa chính. Chúng tôi đã đánh giá sự khác biệt trong thành phần vi sinh vật đường ruột giữa bệnh diverticular không biến chứng (DD), hội chứng ruột kích thích (IBS) và bệnh viêm ruột (IBD). Bệnh nhân DD, IBS và IBD cùng với những người khỏe mạnh (CT) đã được tuyển chọn vào phòng khám ngoại trú tiêu hóa của chúng tôi ở Ý. Mẫu phân đã được thu thập. Thành phần vi sinh vật được đánh giá thông qua phương pháp tiếp cận gen nhắm mục tiêu metagenomic. Bệnh lý tiêu hóa thể hiện một quang phổ liên tục của các bệnh, trong đó IBD thể hiện một cực đoan, trong khi CT thể hiện cực đối diện. Giữa các Phyla, đồ thị Biplot PC2/PC3 và đồ thị dendogram cho thấy sự khác biệt lớn trong các mẫu từ IBS và IBD. DD có thành phần tương tự với CT, nhưng không đối với Bacteroides fragilis. Trong IBS, Dialister spp. và sau đó là Faecalibacterium prausnitzii là các loài đại diện nhất. Viêm loét đại tràng cho thấy nồng độ Clostridium difficile giảm và nồng độ Bacteroides fragilis tăng. Trong bệnh Crohn, Parabacteroides distasonis là loài được đại diện nhiều nhất, trong khi Faecalibacterium prausnitzii và Bacteroides fragilis bị giảm đáng kể. Mỗi rối loạn có chữ ký vi sinh vật tổng thể riêng, tạo ra sự khác biệt rõ ràng so với các rối loạn khác. Mặt khác, những thay đổi chung tạo thành “dysbiosis lõi” của các bệnh đường tiêu hóa. Việc đánh giá những dấu hiệu vi sinh vật này đại diện cho một tham số có thể bổ sung cho việc đánh giá chẩn đoán.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5