Bệnh gút là gì? Các công bố khoa học về Bệnh gút

Bệnh gút, còn được gọi là bệnh gút cấp hoặc bệnh gút mãn tính, là một loại viêm khớp mạn tính có nguyên nhân chính là do tăng hàm lượng acid uric trong máu. Aci...

Bệnh gút, còn được gọi là bệnh gút cấp hoặc bệnh gút mãn tính, là một loại viêm khớp mạn tính có nguyên nhân chính là do tăng hàm lượng acid uric trong máu. Acid uric tạo thành các tinh thể urat trong khớp, gây ra viêm dữ dội, đau và sưng đỏ ở các khớp, thường là ở hình dạng của hạt tinh thể trên da. Bệnh gút thường ảnh hưởng đến ngón chân cái, gây đau nhức, cản trở khả năng di chuyển. Bệnh thường phát triển chậm dần và có thể làm viêm nhiều khớp và gây ra tổn thương lâu dài nếu không điều trị. Các nguyên nhân gây bệnh gút gồm di truyền, tác động từ thức ăn (như quá nhiều purine từ một số loại thực phẩm), bệnh tiểu đường, béo phì và tiền sử gia đình về bệnh gút.
Bệnh gút là một dạng viêm khớp mạn tính mà nguyên nhân chính là tăng hàm lượng acid uric trong máu. Acid uric là một chất thải tự nhiên trong cơ thể, được tạo ra từ quá trình phân hủy purine - một hợp chất có trong một số loại thực phẩm. Thường thì acid uric sẽ được hòa tan trong máu và được tiểu tiết bởi thận. Tuy nhiên, nếu có sự cân bằng cung cầu giữa việc sản sinh acid uric và khả năng tiễn thải của thận bị mất cân đối, acid uric sẽ tích tụ trong máu, hình thành tinh thể urat trong các khớp.

Các tinh thể urat sẽ chắp cánh việc xâm nhập và kích thích miễn dịch, làm cho khớp bị viêm, đau và sưng đỏ. Cụ thể, bất kỳ khớp nào trong cơ thể có thể bị ảnh hưởng, nhưng bệnh gút thường tác động mạnh nhất lên các khớp nhỏ, đặc biệt là ngón chân cái.

Các yếu tố nguy cơ gây bệnh gút bao gồm:
1. Yếu tố di truyền và gia đình: Có người thân có bệnh gút gia đình gia tăng nguy cơ mắc bệnh.
2. Thức ăn: Một số thực phẩm giàu purine gia tăng khả năng sản xuất acid uric. Điển hình là các thực phẩm có hàm lượng nạc cao như hải sản (tôm, cua, cá mòi), thịt đỏ, các loại mỡ và các loại nước ngọt có chứa fructose.
3. Tiền sử bệnh tiểu đường, béo phì, thiếu tái hấp thụ chất xơ, già đồng và sử dụng một số loại thuốc (như thiazide, aspirin) cũng có thể tăng nguy cơ mắc bệnh gút.

Triệu chứng bệnh gút có thể bao gồm: đau cấp tính, sưng và đỏ ở khớp. Những cơn đau thường xảy ra trong đêm và có thể kéo dài từ vài giờ đến vài ngày. Ngoài ra, các khớp bị tác động có thể trở nên nhạy cảm và đau khi tiếp xúc với ánh sáng hoặc chạm vào.

Để chẩn đoán bệnh gút, bác sĩ thường sử dụng các phương pháp như kiểm tra huyết thanh để đo hàm lượng acid uric, thực hiện xét nghiệm nước tiểu để xác định có tinh thể urat hay không.

Điều trị bệnh gút bao gồm giảm đau và viêm, kiểm soát tăng acid uric và ngăn ngừa tái phát. Điều này có thể được đạt được thông qua việc dùng thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs), thuốc chống viêm steroid, thuốc làm giảm hàm lượng acid uric (như allopurinol), thay đổi lối sống (như giảm cân, tăng hoạt động thể chất, kiểm soát thức ăn) và hạn chế tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh gút":

Các chất chuyển hóa tryptophan của vi khuẩn điều hòa chức năng hàng rào ruột thông qua thụ thể aryl hydrocarbon Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 117 Số 32 - Trang 19376-19387 - 2020
Ý nghĩa

Hệ vi sinh vật đường ruột bao gồm hàng nghìn tỷ vi sinh vật sinh sống trong ruột động vật có vú. Những vi khuẩn này điều tiết nhiều khía cạnh của sinh lý chủ, bao gồm các cơ chế bảo vệ chống lại các yếu tố góp phần gây ra bệnh viêm ruột (IBDs). Mặc dù vi sinh vật đường ruột rất phong phú, nhưng có rất ít thông tin về cách mà những vi khuẩn này điều chỉnh các quá trình của chủ, bao gồm chức năng hàng rào của biểu mô ruột, điều khiển tính thấm của ruột liên quan đến IBDs. Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi phát hiện ra rằng ba chất chuyển hóa phân tử nhỏ do vi khuẩn đường ruột sản sinh từ tryptophan trong chế độ ăn uống làm cải thiện độ toàn vẹn của hàng rào ruột và bảo vệ chống lại viêm do IBDs gây ra. Nghiên cứu của chúng tôi nhận diện một thụ thể của chủ và các mục tiêu tiếp theo của các chất chuyển hóa, có thể đóng vai trò như các con đường tiềm năng cho các phương pháp điều trị dự phòng và điều trị nhằm cải thiện tình trạng nghiêm trọng trong IBDs.

#Hệ vi sinh vật đường ruột #tryptophan #hàng rào biểu mô ruột #bệnh viêm ruột #chất chuyển hóa vi khuẩn #thụ thể aryl hydrocarbon #IBDs #tính thấm của ruột #điều trị dự phòng #phương pháp điều trị
Vi sinh vật đường ruột trong sức khỏe, bệnh diverticular, hội chứng ruột kích thích và bệnh viêm ruột: Thời điểm cho dấu hiệu vi sinh vật của các rối loạn tiêu hóa Dịch bởi AI
Digestive Diseases - Tập 36 Số 1 - Trang 56-65 - 2018

Có rất ít dữ liệu về sự khác biệt trong thành phần vi sinh vật đường ruột giữa các bệnh đường tiêu hóa chính. Chúng tôi đã đánh giá sự khác biệt trong thành phần vi sinh vật đường ruột giữa bệnh diverticular không biến chứng (DD), hội chứng ruột kích thích (IBS) và bệnh viêm ruột (IBD). Bệnh nhân DD, IBS và IBD cùng với những người khỏe mạnh (CT) đã được tuyển chọn vào phòng khám ngoại trú tiêu hóa của chúng tôi ở Ý. Mẫu phân đã được thu thập. Thành phần vi sinh vật được đánh giá thông qua phương pháp tiếp cận gen nhắm mục tiêu metagenomic. Bệnh lý tiêu hóa thể hiện một quang phổ liên tục của các bệnh, trong đó IBD thể hiện một cực đoan, trong khi CT thể hiện cực đối diện. Giữa các Phyla, đồ thị Biplot PC2/PC3 và đồ thị dendogram cho thấy sự khác biệt lớn trong các mẫu từ IBS và IBD. DD có thành phần tương tự với CT, nhưng không đối với Bacteroides fragilis. Trong IBS, Dialister spp. và sau đó là Faecalibacterium prausnitzii là các loài đại diện nhất. Viêm loét đại tràng cho thấy nồng độ Clostridium difficile giảm và nồng độ Bacteroides fragilis tăng. Trong bệnh Crohn, Parabacteroides distasonis là loài được đại diện nhiều nhất, trong khi Faecalibacterium prausnitziiBacteroides fragilis bị giảm đáng kể. Mỗi rối loạn có chữ ký vi sinh vật tổng thể riêng, tạo ra sự khác biệt rõ ràng so với các rối loạn khác. Mặt khác, những thay đổi chung tạo thành “dysbiosis lõi” của các bệnh đường tiêu hóa. Việc đánh giá những dấu hiệu vi sinh vật này đại diện cho một tham số có thể bổ sung cho việc đánh giá chẩn đoán.

Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của bệnh nhân gút tại Bệnh viện Đa khoa Xanh pôn năm 2020 - 2021
Nghiên cứu nhằm mô tả tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân gút tại Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn. Nghiên cứu mô tả cắt ngang thực hiện trên 73 đối tượng trên 18 tuổi được chấn đoán mắc bệnh gút theo tiêu chuẩn ACR/EULAR 2015 (Hội Thấp khớp học Hoa Kì và Liên đoàn phòng chống thấp khớp Châu Âu), trong thời gian từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 3 năm 2021. Kết quả nghiên cứu cho thấy có 5,5% bệnh nhân có tình trạng thiếu năng lượng trường diễn (BMI - chỉ số khối cơ thể < 18,5), 53,4% bệnh nhân có tình trạng thừa cân/béo phì (BMI ≥ 23). Những đối tượng mắc bệnh mạn tính không lây đi kèm có nguy cơ thừa cân/béo phì cao hơn so với những đối tượng không mắc bệnh (OR = 7,4). Khi đánh giá theo phương pháp SGA, có 15,0% người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng ở mức độ nhẹ đến vừa (SGA-B), trong đó bệnh nhân nội trú chiếm tỉ lệ cao hơn so với bệnh nhân ngoại trú (31,6% so với 9,3%). Những người bệnh có trên 10 đợt gút cấp/năm có nguy cơ suy dinh dưỡng lớn hơn (OR = 5,6), theo phương pháp SGA.
#Tình trạng dinh dưỡng #bệnh gút #Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn #Việt Nam.
NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG CỦA BÀI THUỐC “CHỈ THỐNG NHƯ THẦN THANG” TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN GÚT
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 538 Số 3 - Trang - 2024
Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá tác dụng của bài thuốc “Chỉ thống như thần thang” trong điều trị bệnh nhân Gút. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 60 bệnh nhân không phân biệt giới tính, nghề nghiệp được chẩn đoán là gút cấp hoặc đợt cấp gút mạn theo tiêu chuẩn chẩn đoán của YHHĐ và bệnh danh Thống phong thể phong thấp nhiệt theo YHCT. Nhóm chứng: gồm 30 bệnh nhân được điều trị bằng Colchicine 1mg trong 14 ngày. Nhóm nghiên cứu: gồm 30 bệnh nhân được điều trị bằng Colchicine 1mg kết hợp bài thuốc “Chỉ thống như thần thang” trong 14 ngày. Kết quả: Sau 14 ngày điều trị: chỉ số viêm của các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu và nhóm chứng giảm có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Không có sự khác biệt giữa hai nhóm (p> 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân nhóm nghiên cứu được điều trị hạ acid uric máu đạt mục tiêu chiếm cao hơn so với nhóm chứng (p > 0,05). Điểm Nimodipin ở cả hai nhóm đều cải thiện so với trước điều trị (p< 0,001); trong đó nhóm nghiên cứu có mức giảm tốt hơn (p< 0,05). Tỷ lệ bệnh nhân nhóm nghiên cứu được điều trị có hiệu quả rõ rệt, cao hơn so với nhóm chứng với p < 0,05. Các chỉ số của chức phận tạo máu và chức năng gan, thận không thay đổi có ý nghĩa thống kê trước và sau điều trị với p > 0,05. Kết luận: Bài thuốc “Chỉ thống như thần thang” kết hợp Colchicine 1mg là phương pháp an toàn, có tác dụng tốt trong điều trị bệnh nhân gút thông qua việc cải thiện các chỉ số viêm, hạ acid uric máu và cải thiện các chứng hậu theo Y học cổ truyền
#Y học cổ truyền #Gút #Chỉ thống như thần thang
BÁO CÁO CA BỆNH GÚT MẠN TÍNH CÓ TĂNG AXIT URIC MÁU ĐIỀU TRỊ BẰNG BÀI THUỐC CỔ PHƯƠNG “LỤC NHẤT TÁN”
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Cùng với sự gia tăng tuổi thọ và thay đổi kinh tế xã hội, tăng axit uric máu và bệnh gút ngày càng phổ biến và trở thành thách thức lớn đối với ngành y tế. Nếu không được điều trị phù hợp, các đợt viêm khớp sẽ xuất hiện thường xuyên và kéo dài hơn, điều trị khó khăn hơn và hậu quả lâu dài của bệnh sẽ là viêm nhiều khớp, viêm khớp nhiễm khuẩn, cứng khớp, biến dạng và hạn chế vận động khớp, thậm chí dẫn tới tàn phế, sỏi hệ tiết niệu, đặc biệt là sỏi thận, suy thận hoặc ảnh hưởng đến toàn bộ các cơ quan khác trong cơ thể. Từ đó gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới chất lượng cuộc sống của người bệnh. Với nguồn dược liệu phong phú, Y học cổ truyền Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về các vị thuốc, bài thuốc điều trị bệnh gút có hiệu quả. Chúng tôi báo cáo một bệnh nhân được chẩn đoán gút mạn tính có tăng axit uric máu điều trị hiệu quả bằng bài thuốc cổ phương “Lục nhất tán”.
#Lục nhất tán #gut #tăng axit uric máu
Thay đổi kiến thức của người bệnh gút về chế độ ăn uống và lối sống sau can thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định năm 2017
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 1 Số 1 - Trang 07-14 - 2018
Mục tiêu: Mô tả thực trạng và đánh giá sự thay đổi kiến thức của người bệnh Gút về chế độ ăn uống và lối sống sau can thiệp. Phương pháp: Bộ câu hỏi được sử dụng để lượng giá kiến thức của người bệnh Gút về những loại thức ăn và lối sống tốt cho họ. Chương trình giáo dục sức khỏe được xây dựng chuẩn mực cho người bệnh Gút. Kiến thức của người bệnh Gút về chế độ ăn uống và lối sống được đánh giá lần 2 trên cùng 1 bộ câu hỏi. Kết quả: Trước can thiệp kiến thức về chế độ ăn uống và lối sống cho người bệnh Gút còn hạn chế, chỉ có một số ít người bệnh hiểu được nguy cơ gây khởi phát cơn Gút cấp của một số thực phẩm thông thường và lối sống có lợi cho người bệnh Gút với điểm trung bình chung kiến thức 7,31 ± 1,68 trên tổng sổ 18 điểm. Sau can thiệp kiến thức về chế độ ăn uống và lối sống cho người bệnh Gút đã được tăng lên đáng kể, 100% người bệnh có kiến thức về chế độ ăn uống và lối sống cho người bệnh Gút với điểm trung bình kiến thức 15,52 ± 1,3 trên tổng số 18 điểm. Kết luận: Kiến thức về chế độ ăn uống và lối sống của người bệnh Gút tại Bệnh viện Đa khoa Nam Định còn thiếu nhưng đã được cải thiện đáng kể sau can thiệp giáo dục sức khỏe.
#chế độ ăn #hành vi lối sống #Gút
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VÀ SỬ DỤNG THUỐC CORTICOSTEROID Ở BỆNH NHÂN GÚT TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ và thực trạng sử dụng thuốc rticosteroid ở bệnh nhân gút tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. (2) Mô tả kiến thức về thuốc corticosteroid của các đối tượng trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang gồm 59 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh gút theo tiêu chuẩn chẩn đoán Bennett – Wood năm 1968, điều trị nội trú tại khoa Nội tổng hợp và điều trị ngoại trú tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, từ tháng 07/2021 đến tháng 06/2022. Kết quả: Tỷ lệ sử dụng thuốc corticosteroid ở bệnh nhân gút là 62,7% trong đó chỉ có 27,1% bệnh nhân dùng thuốc corticosteroid do bác sỹ kê đơn, 21,6% bệnh nhân tự ý sử dụng thuốc corticosteroid mà không có tư vấn của nhân viên y tế và 37,8% bệnh nhân đã từng tự ý tăng liều thuốc corticosteroid. Tác dụng không mong muốn thường gặp là suy thượng thận do thuốc (78,4%), loãng xương (72,9%), tăng huyết áp (54,1%). Về kiến thức, có 70,3% bệnh nhân không bao giờ chủ động tìm hiểu về thuốc, tỷ lệ bệnh nhân biết tác dụng điều trị của thuốc corticosteroid và tác dụng không mong muốn của thuốc corticosteroid là 62,2% và 45,9%. Tỷ lệ bệnh nhân được nhân viên y tế tư vấn về thuốc corticosteroid chỉ chiếm 62,2%. Kết luận: Tỷ lệ sử dụng corticosteroid ở bệnh nhân gút cao tuy nhiên mức độ hiểu biết của bệnh nhân gút về thuốc corticosteroid ở mức trung bình. Nhân viên y tế, đặc biệt là bác sỹ điều trị, cần tích cực tư vấn, giáo dục bệnh nhân về bệnh cũng như thuốc điều trị để đạt được hiệu quả điều trị tốt hơn.
#Gút #corticosteroid
Chế độ ăn uống, vi sinh vật đường ruột và vitamin D + A trong bệnh đa xơ cứng Dịch bởi AI
Elsevier BV - Tập 15 - Trang 75-91 - 2017
Cốt lõi trong việc hiểu mối quan hệ giữa chế độ ăn uống, vi sinh vật đường ruột và vitamin D và A trong bệnh đa xơ cứng là viêm mức độ thấp, điều này liên quan đến tất cả các bệnh viêm mãn tính và bị ảnh hưởng bởi từng yếu tố trên. Chúng tôi chỉ ra rằng các thành phần thực phẩm có hiệu ứng proinflammatory hoặc anti-inflammatory và ảnh hưởng đến cả chuyển hóa của con người (được gọi là “metabolome”) và thành phần của vi sinh vật đường ruột. Các chế độ ăn uống phương Tây giàu calo và chất béo từ động vật thúc đẩy sự đồng hóa và làm thay đổi thành phần vi sinh vật đường ruột theo hướng loạn khuẩn. Viêm ruột sau đó dẫn đến sự rò rỉ của hàng rào ruột, sự phá vỡ hàng rào máu-não và viêm thần kinh. Ngược lại, chế độ ăn chay, giàu chất xơ, tương thích với eubiosis đường ruột và tình trạng sức khỏe tốt. Mức vitamin D, chủ yếu là thiếu hụt trong tình trạng viêm mức độ thấp kéo dài, chỉ có thể được phục hồi về giá trị tối ưu thông qua việc cung cấp lượng lớn cholecalciferol. Ở các giá trị tối ưu (>30 ng/ml), vitamin D cần vitamin A để liên kết với thụ thể vitamin D và phát huy tác dụng chống viêm. Cả hai vitamin cần phải được cung cấp cho những người thiếu vitamin D. Chúng tôi kết luận rằng các chất dinh dưỡng, bao gồm cả chất xơ thực phẩm không tiêu hóa, đóng vai trò quan trọng trong việc xử lý viêm mức độ thấp liên quan đến các bệnh viêm mãn tính. Hành động của chúng được trung gian bởi vi sinh vật đường ruột và bất kỳ sự thay đổi vi sinh nào do chế độ ăn gây ra đều làm thay đổi tương tác giữa chủ thể và vi sinh vật theo một cách nhất quán, làm cải thiện hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng bệnh.
#chế độ ăn uống #vi sinh vật đường ruột #vitamin D #vitamin A #bệnh đa xơ cứng #viêm mãn tính
Khảo sát nồng độ axít uric và tỷ lệ bệnh gút ở bệnh nhân nam tại Bệnh xá Sư đoàn 9
Mục tiêu: Khảo sát nồng độ axít uric máu, tỷ lệ tăng axít uric và tỷ lệ bệnh gút ở đối tượng nam giới đến khám bệnh tại Bệnh xá Sư đoàn 9. Đối tượng và phương pháp: Tiến cứu, mô tả cắt ngang trên 343 bệnh nhân nam giới. Chẩn đoán bệnh gút dựa trên tiêu chuẩn của Bennet và Wood (1968). Kết quả: Nồng độ axít uric trung bình của đối tượng nghiên cứu là 349,02 ± 87,442mmol/l. Nồng độ axít uric có xu hướng tăng theo tuổi, tuy nhiên chưa có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Tỷ lệ tăng axít uric máu là 19,2%. Tỷ lệ bệnh gút của đối tượng nghiên cứu là 7,9%. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỉ lệ bệnh gút theo tuổi. Kết luận: Đối tượng nghiên cứu có nồng độ axít uric là 349,02 ± 87,442mmmol/l, tỷ lệ tăng axít uric là 19,2%, tỷ lệ bệnh gút là 19,2%.  
#Axít uric máu #bệnh gút
Gây mê toàn thân chèn ép đường ruột: mối quan hệ độc hại với rối loạn hệ vi sinh và suy chức năng nhận thức Dịch bởi AI
Psychopharmacology - Tập 239 - Trang 709-728 - 2022
Rối loạn nhận thức sau phẫu thuật (PND) là một kết quả phổ biến sau phẫu thuật, ảnh hưởng đến gần một phần ba bệnh nhân cao tuổi, và nó liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh cao cũng như tăng nguy cơ phát triển bệnh Alzheimer. PND được đặc trưng bởi sự suy giảm nhận thức có thể biểu hiện cấp tính dưới dạng hoang tưởng sau phẫu thuật (POD) hoặc sau khi xuất viện dưới dạng rối loạn chức năng nhận thức sau phẫu thuật (POCD). Mặc dù POD và POCD là những tình trạng lâm sàng khác nhau, nhưng sự phát triển của chúng dường như được trung gian bởi một phản ứng viêm toàn thân do chấn thương phẫu thuật gây ra, dẫn đến rối loạn chức năng của hàng rào máu-não và tạo điều kiện cho sự xuất hiện của viêm thần kinh. Các nghiên cứu gần đây đã gợi ý rằng thành phần vi khuẩn đường ruột có thể đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của PND bằng cách điều chỉnh nguy cơ thiết lập viêm thần kinh. Thực tế, việc điều chỉnh thành phần hệ vi khuẩn đường ruột bằng pre- và probiotics dường như có hiệu quả trong việc phòng ngừa và điều trị PND ở động vật. Điều thú vị là, thuốc gây mê tổng quát dường như có trách nhiệm lớn trong những thay đổi về thành phần vi khuẩn đường ruột sau phẫu thuật và, do đó, có thể là một yếu tố quan trọng trong quá trình khởi phát PND. Khái niệm này đại diện cho một cột mốc quan trọng trong việc hiểu rõ về quá trình sinh bệnh của PND và có thể mở ra những cơ hội mới cho việc phát triển các chiến lược phòng ngừa hoặc giảm nhẹ đối với sự phát triển của những tình trạng này. Mục tiêu của bài đánh giá này là thảo luận về cách các thuốc gây mê được sử dụng trong gây mê toàn thân có thể tương tác và thay đổi sự phân bố vi khuẩn đường ruột và góp phần vào sự phát triển PND bằng cách tạo điều kiện cho sự xuất hiện của viêm thần kinh.
#Rối loạn nhận thức sau phẫu thuật #gây mê toàn thân #vi khuẩn đường ruột #viêm thần kinh #bệnh Alzheimer
Tổng số: 16   
  • 1
  • 2